• :
  • :
CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN HƯƠNG KHÊ
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Nâng cao hiệu quả “sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học”

Bồi dưỡng chuyên môn là việc làm thường xuyên, hàng ngày của mỗi giáo viên và nhà trường. Ngoài tự học, tự bồi dưỡng giáo viên còn trực tiếp tham bồi dưỡng do trường triển khai định kỳ theo tổ, khối (2 lần/tháng); bồi dưỡng chuyên môn qua các chuyên đề đầu năm học do nhà trường và ngành tổ chức; bồi dưỡng thường xuyên theo quy định của Bộ GDĐT (các mô đun) trong năm học.
        Các cấp quản lý giáo dục không ngừng bồi dưỡng giáo viên tại cơ sở để từng bước đáp ứng mục tiêu nâng cao chất lượng dạy học trong thời kỳ đổi mới. Về công tác “Tăng cường chỉ đạo, quản lý hoạt động dạy học, giáo dục” Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã chỉ đạo: “Tập trung đổi mới sinh hoạt chuyên môn của tổ/nhóm chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học”(1).
Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học (SHCM dựa trên NCBH) tiền thân là “Sinh hoạt chuyên môn theo hướng lấy học sinh làm trung tâm” đã được Bộ GDĐT triển khai bước đầu theo chương trình “Đảm bảo chất lượng giáo dục trường học” tại các tỉnh vùng khó khăn.
        Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là hoạt động sinh hoạt chuyên môn mà ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến việc học sinh học như thế nào, gặp khó khăn gì, kết qủa học tập cải thiện như thế nào, các em có hứng thú tham gia và quá trình học tập và giáo viên cần điều chỉnh về hình thức tổ chức, tương tác các đối tượng trong dạy học như thế nào để đạt mục tiêu. SHCM dựa trên NCBH là tạo cơ hội cho mỗi cá nhân nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, phát huy khả năng sáng tạo trong dạy học thông qua hoạt động dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ dạy minh họa; rèn luyện một số kỹ năng cho giáo viên; mối quan hệ gần gũi, tạo môi trường thân thiện, dân chủ trong các mối quan hệ giữa các đối tượng, CBQL, GV, NV và học sinh. Làm cho quá trình dạy học tạo cơ hội để tất cả học sinh được thực sự tham gia vào quá trình học tập, biết tự học, tự làm việc với tài liệu, giúp các em tự tin, phát huy sáng tạo, rèn luyện phẩm chất và năng lực của bản thân.
        Tuy việc triển khai SHCM dựa trên NCBH đã một thời gian nhưng một số buổi sinh hoạt vẫn thiên về sinh hoạt chuyên môn theo kiểu cũ, nặng hành chính và đánh giá, nhận xét, xếp loại một giờ dạy.
Với tinh thần “Tập trung đổi mới sinh hoạt chuyên môn của tổ/nhóm chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học” như chỉ đạo của Bộ GDĐT tại văn bản 4612/BGDĐT-GDTrH, ngày 03 tháng 10 năm 2017 về việc hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2018. Qua thực tế khai tại cơ sở xin nêu một số ý kiến sau:
        1. Tiếp cận yêu cầu mới về sinh hoạt chuyên môn.
        Ngoài việc triển khai một số chuyên đề khác thì sinh hoạt chuyên môn truyền thống xưa nay thường theo một quy trình, nhà trường lên kế hoạch cho các tổ chuyên môn, tổ chuyên môn phân cho giáo viên bài dạy hoặc cho giáo viên chọn bài, giáo viên tự thiết kế hoặc có tham khảo một vài đồng nghiệp hoặc CBQL, sau đó dạy cho tổ dự giờ, nhận xét, đánh giá, xếp loại và đi đến thống nhất cơ bản về một cách dạy, quy trình dạy cho một kiểu bài của môn học đó. Người thiết kế và dạy chủ yếu dựa trên các tài liệu hướng dẫn như sách giáo viên, sách thiết kế…, ít được trao đổi thống nhất chung của một tập thể. Người dạy thường bám sát và dạy hết các nội dung kiến thức có trong bài học; tập trung nhiều vào học sinh khá giỏi để làm trụ cột cho lớp và đảm bảo thời lượng nhất định của tiết học. Người dự giờ thường ngồi phía sau để quan sát tiến trình lên lớp của người dạy, chủ yếu là giám sát việc dạy của giáo viên. Khi thảo luận đánh giá thường đi từ việc quan sát hoạt động của giáo viên, lấy việc quan sát hoạt động của giáo viên là kết quả đánh giá trọng tâm; khi thảo luận. Chia sẻ thường lấy từ cái “tôi” của mình ra chứ ít quan tâm đến kết quả hoạt động, tham gia học tập của học sinh để làm nền tảng.
        Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học có những điểm mới, khác so với sinh hoạt chuyên môn theo truyền thống, do vậy cần có một sự tiếp cận mới. Cần có thay đổi nhận thức trong việc tổ chức thực hiện, xuất phát từ CBQL và trong mỗi giáo viên; Cần sự kiên trì, mong muốn thay đổi trong mỗi bản thân để từng bước tiếp cận và tham gia thực hiện tốt sinh hoạt chuyên môn. Phải làm cho sinh hoạt chuyên môn mới thành nhu cầu của cá nhân và tập thể trong tiến trình đổi mới hình thức tổ chức dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục, nhằm phát huy năng lực, phẩm chất người học theo chỉ đạo của Bộ GDĐT.
        2. Một số yêu cầu
        -  Xây dựng kế hoạch:
        Đơn vị trường hoặc liên trường (đối với sinh hoạt chuyên môn theo cụm liên trường) phải có kế hoạch cụ thể cho SHCM dựa trên NCBH chung của toàn trường hay từng tổ/khối chuyên môn riêng biệt (nên dựa trên số lượng thành viên để tổ chức; đảm bảo không quá đông, hoặc quá ít người).
        -  Bố trí giáo viên dạy minh họa:
        Giáo viên để dạy minh họa do tự nguyện, hoặc do tổ/khối chuyên môn bố trí của trường, hoặc trường khác trong cụm (SHCM liên trường). Ngoài việc giáo viên tự nguyện dạy, việc bố trí giáo viên dạy minh họa thì nên chọn giáo viên có năng lực thực hiện trước, cố gắng để tất cả giáo viên được dạy ít nhất là một lần/năm.
        -  Chuẩn bị bài dạy minh họa:
        Theo kinh nghiệm thì trước hết hết giáo viên dạy cần thiết kế kế hoạch dạy học trước sau đó tất cả các thành viên BGH, các tổ viên cùng trao đổi thảo luận đi đến thống nhất một phương án để dạy. Như vậy, người dạy cơ bản thực hiện phương án thiết kế chung của tập thể (trừ ứng xử tình huống nẩy sinh).
        Bài dạy cần phù hợp chủ đề chuyên môn cần trao đổi, chia sẻ, vấn đề có vướng mắc cần làm sáng tỏ, hoặc là vấn đề mới đang được áp dụng, ví dụ như đưa thành tố tích cực của mô hình trường học mới vào lớp học hiện hành; dạy học theo định hướng phát triển năng lực; sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực; sử dụng PPDH bàn tay nặn bột; dạy học Tiếng Việt lớp 1 theo CGD; dạy học mĩ thuật theo tài liệu định hướng phát triển năng lực…
        -  Hoạt động tại lớp học:
       + Dạy minh họa
       Giáo viên tiến hành dạy học theo thiết kế đã được tập thể xây dựng. Đảm bảo học sinh hoàn toàn không được hướng dẫn trước về nội dung kiến thức bài học ngoài đồ dùng học tập cần chuẩn bị.
       + Lớp học
       Lớp học đảm bảo đủ không gian, chỗ ngồi thuận lợi cho các hoạt động học tập và cho người dự giờ thuận lợi, dễ quan sát tất cả hoạt động học sinh, giáo viên trong tiết học.
       + Người dự giờ
       Các thành viên tham gia dự giờ đảm bảo nghiêm túc, không làm bất cứ việc gì ảnh hưởng đến hoạt động học tập của học sinh, giảng dạy của giáo viên. Luôn tỏ thái độ gần gũi, thân thiện với lớp học.
       Tập trung cao độ cho việc quan sát mọi hoạt động như: kết quả, sản phẩm học tập, sắc thái, biểu cảm, ngôn ngữ, âm lượng, tương tác, đánh giá… của học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên trong tiến trình học tập.  
       Người dự giờ có thể chụp ảnh, ghi âm, quay clip các hoạt động tại lớp học. Để đảm bảo quan sát và theo kịp các hoạt động của lớp học người dự giờ có thể vẽ sơ đồ chỗ ngồi của mỗi cá nhân/nhóm học sinh trong lớp học, tìm kiếm vị trí dễ quan sát nhất.
       Quá trình dự giờ cần tập trung vào mấy vấn đề, học sinh: Việc tham gia vào quá trình học tập; tương tác học sinh-học sinh, học sinh-giáo viên; sử dụng đồ dùng, thiết bị học tập; ngôn ngữ-giao tiếp-ứng xử; đánh giá kết quả của học sinh-học sinh; những khó khăn học sinh gặp phải; sản phẩm học tập-hiệu quả. Về hoạt động của giáo viên: Tổ chức lớp học chung, nhóm, cá nhân (CNCN); hướng dẫn (CNCN); quan sát lớp học; tư vân, hỗ trợ học sinh (CNCN); PP/KTDH; tương tác với học sinh; đánh giá kết quả; âm lượng, ngữ điệu giọng nói; sắc thái và biểu cảm; kiến thức bài học, dặn dò và chuẩn bị cho bài học sau…
       Quá trình quan sát hoạt động dạy- học có thể áp dụng theo 2 phương án sau:
       *) Quan sát chuyên sâu: phân cho mỗi giáo viên hoặc nhóm giáo viên quan sát một hoặc một số nội dung, như giáo viên A/nhóm 1 quan sát về các mối tương tác; giáo viên B/nhóm 2 quan sát về hoạt động, trao đổi, đánh giá của cá nhân/nhóm học sinh; giáo viên C/nhóm 3 quan sát về quá trình hướng dẫn, tư vấn, giúp đỡ, KTDH sử dụng… Tuy nhiên, phương án này chỉ nên áp dụng ở những đơn vị mới triển khai hoặc đang ít triển khai SHCM dựa trên NCBH, khi người dự giờ chưa có thói quen, kỹ năng quan sát theo yêu cầu của sinh hoạt chuyên môn, sau đó không nên áp dụng.
       *) Quan sát độc lập: mỗi cá nhân quan sát tích cực tất cả hoạt động lớp học một cách độc lập. Khi thảo luận, chia sẻ là những ý kiến từ minh chứng của cá nhân quan sát được ở tất các hoạt động của lớp học.
Hoạt động quan sát là vấn đề cốt lõi, nếu quan sát không chi tiết, cụ thể thì sẽ không có tư liệu/minh chứng cho hoạt động chia sẻ, thảo luận ở bước tiếp theo. Do vậy, người tham gia dự giờ cần quan sát được tối đa hoạt động, biểu cảm của học sinh, giáo viên trong giờ học.
       3. Thảo luận về tiết học
       Sau khi dự giờ dạy minh họa tổ chức thảo luận về hoạt động của trò-thầy trong tiết học. Có 2 thành phần chủ chốt, đó là: Người điều hành/chủ trì phần thảo luận là đại diện BGH, hoặc TTCM, hoặc giáo viên và người tham gia thảo luận là số CBQL, giáo viên còn lại có tham gia dự giờ.
       - Người chủ trì/điều hành: là người có khả năng dẫn dắt, có năng lực tổ chức, chuyên môn, linh hoạt và luôn biết xử lý tình huống phù hợp để hướng dẫn, dẫn dắt buổi thảo luận đi đúng chủ đề. Ngoài ra cần tạo bầu không khí thân thiện, tích cực để thảo luận có hiệu quả và tạo được mối quan hệ tốt trong tập thể tham gia thảo luận.
       - Người tham gia thảo luận: cần trao đổi cởi mở, thân thiện, chân tình, có minh chứng cụ thể. Bắt đầu từ việc quan sát được gì ở học sinh (học sinh tham gia học như thế nào, học được cái gì, khó khăn, thuận lợi, tương tác, thời điểm diễn ra các sự kiện …, đến hoạt động của giáo viên trong quá trình tổ chức lớp học (hướng dẫn, đặt câu hỏi, đánh giá kết quả, tương tác, xử lý tình huống, biểu cảm, âm lượng lời nói, tác phong sư phạm…). Các thành viên cần biết lắng nghe tích cực, không nói lại các nội dung vấn đề đã được người khác nêu ra trước đó (có thể là khẳng định lại chứ không trình bày lại).
      - Chia sẻ, trao đổi sau tiết dạy:
      + Người chủ trì: nêu mục đích của buổi thảo luận.
      + Người dạy minh họa: nêu mục tiêu cần đạt của bài dạy, một số nội dung liên quan như PPDH, chuẩn KTKN, sử dụng các đồ dùng TBDH, điểm hài lòng và chưa hài lòng sau khi hoàn thành tiết dạy và mức độ đạt mục tiêu.
      + Ý kiến trao đổi của các thành viên tham dự: Các thành viên tham gia dự dự lần lượt trao đổi về những điều mình quan sát được (tốt nhất có Clip chiếu lên để làm minh chứng) chi tiết nội dung có vấn đề từ học sinh hoặc nhóm học sinh, phân tích nguyên nhân vấn đề đó và có thể đưa ra giải pháp khắc phục. Các vấn đề trao đổi có thể tập trung vào những trọng tâm như, của học sinh: hoạt động tham gia học tập (cụ thể), biểu cảm/thái độ, sản phẩm, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau, liên hệ kiến thức đã biết và hình thành kiến thức mới, kỹ năng được hình thành và rèn luyện; về giáo viên: sự phù hợp của tổ chức lớp học, các PP/KTDHTC đã sử dụng, hướng dẫn-kết quả của hướng/điều chỉnh, kiểm tra, đánh giá, thái độ và quá trình tương tác, xử lý tình huống (nếu có)...
      Thành công của thảo luận, SHCM theo NCBH là người chủ trì đút rút được kinh nghiệm điều hành buổi sinh hoạt sau đạt hiệu quả cao hơn cùng với giáo viên tự rút ra được một cách dạy học phù hợp với lớp mình, có hứng thú trong sinh hoạt và mong muốn tiếp tục ở lần sau. Ngoài vấn đề chuyên môn, SHCM dựa trên NCBH còn rèn cho giáo viên nhiều kỹ năng trong đó kỹ năng quan trọng như quan sát tinh tế, sử sụng ngôn ngữ phù hợp/trong sáng, năng lực trao đổi, kỹ năng giao tiếp tự tin trước đám đông và tạo mối thân thiện gắn kết trong đồng nghiệp.
       4.  Một vài kỹ thuật cần chú ý:
       - Xây dựng kế hoạch: Kế hoạch SHCM dựa trên NCBH của tổ, trường hay cụm trường cần cụ thể và phụ thuộc vào điều kiện như không gian lớp học, điều kiện CSVC, tính thiết thực của từng nội dung, PP/KTDH... cho tự nguyện đăng ký hoặc chọn người dạy, chọn môn học, bài dạy hoặc hoạt động giáo dục thiết thực.
       - Thiết kế bài dạy: cần có sự tham gia của tập thể, gắn vào đó là mọi thành viên tham cùng chịu trách nhiệm về ý tưởng đã được đưa vào dạy học, cụ thể:
       + Mục tiêu: cần đảm bảo chuẩn KTKN bài học và phù hợp đối tượng học sinh lớp học (có thể đưa ra mục tiêu cụ thể cho nhóm học sinh);
       + Chuẩn bị: Đồ dùng dạy-học; chọn PP/KTDH phù hợp và một số ngữ liệu (nếu cần thiết);
       + Các hoạt động dạy học chủ yếu rõ ràng, rành mạch.
       - Người dạy: cần thể hiện đúng ý tưởng thiết kế của nhóm (trừ tình huống mới phát sinh). Người dạy mang tính tự nguyện và theo nhiệm vụ, không nên quá áp đặt và miễn cưỡng và là thành viên chủ chốt trong thiết kế bài học.
       - Người dự giờ: Chọn vị trí tốt nhất để quan sát được biểu cảm, thái độ, kết quả, lắng nghe chính xác trao đổi cá nhân, nhóm của học sinh và giáo viên trong toàn bộ tiến trình dạy học; tuyệt đối không làm ảnh hướng đến tâm lý người học, người dạy. Có thể vẽ sơ đồ chỗ ngồi học sinh lớp học để tiện đánh dấu, ghi chép kết quả quan sát.
       + Ghi chép, ghi hình:
        Mỗi giáo viên cần phải ghi chép được, hoặc dùng ký hiệu để ghi lại kết quả quan sát lớp, học sinh, giáo viên từng thời điểm, thời gian. Thời điểm nào, học sinh nào cần trợ giúp và bạn/cô giáo trợ giúp như thế nào, kết quả giúp đỡ? và tiến bộ của học sinh. Ví dụ thời điểm phút thứ 15 học sinh A không tham gia hoạt động học tập, được giáo viên nhắc nhở đã tham gia tốt ở phút 18; học sinh B thời điểm phút 20 chưa tìm được cách giải quyết yêu cầu của giáo viên, được bạn C/cô giáo hỗ trợ đã giải quyết tốt ở phút thứ 25… Quan sát về việc giao nhiệm vụ, tham gia của các thành viên trong nhóm/lớp, kết quả quan sát…
        Ghi hình tiết học là minh chứng tốt nhất, hiệu quả nhất trong khi thảo luận. Hình ảnh minh chứng này góp phần rất lớn, có tính thuyết phục cao, khách quan ý kiến nhận xét. Hình ảnh từ clip được chiếu lên là cú hích có tác dụng rất lớn để phát huy điểm trội; những vấn đề phải điều chỉnh, khắc phục sau này mà đã xẩy ra trong tiết học (đơn giản như một câu hỏi thiếu chính xác, một cử chỉ thiếu thân thiện…). Quá trình ghi hình cần khách quan, hình ảnh và âm thanh cần thể hiện được đầy đủ các hoạt động (hoặc một số hoạt động cơ bản) của học sinh, giáo viên. Quá trình ghi hình không làm ảnh hưởng hoặc gây xáo trộn trong tiết học.
        + Trao đổi, chia sẻ:  
        Người chủ trì: định hướng những nội dung cần trao đổi, chia sẻ; nhắc nhở nhẹ nhàng, tinh tế; không nên chốt lại, không nên nhắc lại ý kiến phát biểu; gợi ý, dẫn dắt, khơi gợi để giáo viên nói được ý chủ đạo của mình và đi vào trọng tâm. Xử lý một số tình huống một cách phù hợp, cương quyết, như kiểu: “ý kiến tôi trùng ý kiến vừa phát biểu” để lần sau/người sau không đưa ra vấn đề này mà cần có ý kiến của riêng mình. Khuyến khích tất cả giáo viên phải đưa ra ý kiến, làm cho người phát biểu nêu nguyên nhân và giải pháp khắc phục cho vấn đề đưa ra; tạo không khí vui tươi, chia sẻ tích cực. Không tổng kết, kết luận mà tóm tắt các vấn đề cần lưu ý, các giải pháp để mỗi giáo viên rút ra kết luận để áp dụng sau này cho mình.
        Người tham gia thảo luận: Căn cứ vào mục tiêu bài học để thảo luận. Không biến người dạy thành mục tiêu phê phán. Không áp đặt ý kiến các nhân, kinh nghiệm chủ quan khi đưa ra nhận xét, sử dụng các câu nói kiểu: “nếu là tôi, tôi sẽ…”, “đáng lẽ ra phải làm thế này…”. Không phân tích, mổ xẻ, xoi mói những hạn chế của người dạy. Người trao đổi xác định mình là người trong cuộc, là người tham gia thiết kế và cũng như là người dạy trên lớp. Tập trung phân tích việc học của học sinh dựa trên các minh chứng cụ thể (ở Clip; hoặc thời điểm nào, HS nào, sự việc gì diễn ra, đã giải quyết như thế nào…). Phân tính kết quả quan sát bắt đầu từ hoạt động của học sinh và đặt ra những câu hỏi thắc mắc, như: tại sao như thế? nguyên nhân?, cách khắc phục như thế nào?... Thái độ thảo luận nhẹ nhàng, gần gũi, thân thiện, trách nhiệm và không đánh giá hoặc xếp loại giờ dạy.
        Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học giúp CBQL, giáo viên trong công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ dạy học; xây dựng và rèn kỹ năng thiết kế kế hoạch dạy học phù hợp chuẩn kiến thức kĩ năng, đối tượng, điều kiện; kỹ năng tổ chức lớp học linh hoạt, áp dụng các PP/KTDHTC và dạy học nhằm phát triển tốt năng lực, phẩm chất học sinh …góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Ngoài ra còn giúp một số giáo viên thường lúng túng, mất bình bĩnh trước tập thể, đám đông, rèn kỹ năng kiềm chế, bình tĩnh, sử dụng ngôn ngôn ngữ, giao tiếp tự tin hơn trong cuộc sống. Quan hệ giữa các đồng nghiệp trở nên gần gũi, có sự thông cảm, gắn bó, chia sẻ khó khăn, sẵn sàng giúp đỡ, lắng nghe, tôn trọng sự khác biệt, khiêm tốn học hỏi lẫn nhau và sống cùng chân tình, cởi mở.
         Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp.
                                                                                                                                                                                                                                                                                                       
Tài liệu tham khảo:
(1) Bộ GDĐT số: 4612/BGDĐT-GDTrH,  ngày 03 tháng 10 năm 2017
(2) Bộ GDĐT: Tài liệu Chương trình đảm bảo CLGD trường học.

Tác giả: Lê Hữu Tân - Sở GD&ĐT Hà Tĩnh
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết